Thứ Năm, 19 tháng 4, 2012

Có một lũy tre làng trong ký ức tuổi thơ-(đọc xong thấy bâng khuâng!)

"Tre xanh/ Xanh tự bao giờ/ Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh...
 Không biết tự thuở nào cây tre đã gắn bó máu thịt với mỗi người dân Việt. Cây tre có trong khúc hát mẹ ru ầu ơ thuở lọt lòng, trong những câu chuyện cổ tích ba kể trưa hè ngày xưa có ông Gióng, cưỡi ngựa dùng tre đánh giặc, trong bài giảng lịch sử của thầy cô về trận chiến Bạch Đằng..."Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre và đánh giặc"...(Nguyễn Khoa Điềm). Tre có trong những trò chơi con nít ngày thơ ấu, với những trận đòn roi nhớ đời....Lớn lên một chút, mỗi lần về thăm quê, rời bến xe xuống đi bộ đến đầu làng, đã thấy thấp thoáng bóng tre xanh là lòng bình yên lắm. Tre gắn bó với cuộc sống hàng ngày của người dân Việt, từ cái rổ, cái rá, đôi đũa trong bữa cơm, đến cái quạt tay....
Rồi khi con người ta mất đi, vẫn cây tre là "đòn" đưa con người trở về với cát bụi, trở về với đất... Một năm ba trăm sáu mươi năm ngày, đối với người Việt, Tết là dịp đặc biệt nhất. Không phải tự nhiên mà cây tre luôn có có mặt gắn bó với đời sống của người Việt đến thế. Cây nêu làm bằng tre là thứ không thể thiếu trong ngày lễ cổ truyền này.
Chuyện kể rằng xưa kia, người Việt thông minh, đem cây tre đi làm vật thách đấu với lũ quỷ, bóng tre đi đến đâu, lũ quỷ thua cuộc phải nhường đất cho dân lành đến đấy...Người Việt mình tin rằng, cây nêu giúp xua đuổi tà ma, hy vọng một năm mới với đủ đầy, no ấm.
Còn đối với người ở Nam Bộ, quê hương đất nước là hình ảnh của chiếc cầu tre thu nhỏ. Nơi ấy không chỉ là nơi qua lại mà còn là nơi hẹn hò gái trai ghi dấu bao kỷ niệm. "Ầu ơ, cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi..." tiếng ru con buồn bã của số phận người đàn bà phương Nam ấy có lẽ sẽ mãi khắc sâu trong tâm thức của mỗi bé con khi chúng lớn lên. Đó là tiếng ru thương yêu, mang mùi mồ hôi mặn chát của nắng, của những vất vả, nhọc nhằn, nhưng trên hết là của tình mẫu tử thẳm sâu....
Cây tre đã gắn bó máu thịt với mỗi người dân Việt
Tre lặng lẽ chứng kiến biết bao sự biến chuyển của thời gian, của lịch sử, của con người và đất nước Việt. Nhắc đến tre là nhắc đến những gì can trường, điềm tĩnh mà thanh thản như chính quê hương ta, xứ sở ta, đất nước Việt Nam ta. Một vẻ đẹp bình dị, độc đáo, khác thường, rất Việt Nam: "Thân gầy guộc, lá mong manh/ Mà sao nên luỹ, nên thành tre ơi/ Ở đâu tre cũng xanh tươi/ Cho dù cát sỏi đá vôi bạc màu". Không phải tự nhiên mà hai từ "cây tre" hiếm khi được dùng riêng. Người ta thường dùng "lũy", "khóm" cũng bởi vì tre không bao giờ mọc một cây riêng lẻ, bao giờ tre cũng mọc thành cụm. Phải chăng điều đó làm nên nét đẹp hài hoà của làng quê và con người Việt? Đặc điểm cố kết này tượng trưng cho tính cộng đồng của người Việt.
Người Việt mình dù ở đâu, dù có "sỏi đá vôi bạc màu" vẫn lớn lên, sinh tồn, vẫn "xanh tươi" như sức sống của lũy tre làng.
Tre cũng là loài cây khá cứng và dễ trồng. Sự bền bỉ của nó hệt như sức sống bất diệt của con người Việt Nam. Đất nước bao phen thăng trầm, từ thuở sơ khai dựng nước xa xưa cho đến hội nhập mở cửa thời nay: "Có gì đâu, có gì đâu/ Mỡ màu ít chất dồn lâu hoá nhiều/ Rễ siêng không ngại đất nghèo/ Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù/ Vươn mình trong gió tre đu/ Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành".
Cây tre hay hình ảnh và cốt cách người Việt
Cây tre giống với người Việt chúng ta. Nghèo khó, lam lũ nhưng vẫn lạc quan vượt khó. Tre không chê đất nghèo, chắt chiu dinh dưỡng cho những ngọn măng non nớt, mập mạp nhô lên. Qua ngày, qua tháng, qua năm, măng mọc lên như là sự tiếp nối của tre với bao hy vọng. Sự sống vẫn diễn ra, sinh sôi và nảy nở, dẫu cho mảnh đất ấy có khô cằn sỏi đá.
Hình ảnh của tre luôn gợi nhớ về một làng quê Việt Nam mộc mạc, con người Việt Nam thanh cao, giản dị mà chí khí. Tre cùng người trải qua bao thăng trầm của lịch sử, trải qua bao cuộc chiến tranh giữ nước, giành độc lập tự do dân tộc. Tre xứng đáng là hình ảnh biểu tượng cho tính kiên cường, bất khuất của người Việt Nam, là cái đẹp Việt Nam: "Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh/ Tre kia không ngại khuất mình bóng râm/ Bão bùng thân bọc lấy thân/ Tay vin tay níu tre gần nhau thêm".
Và trong vô vàn những khó khắn ấy, tre vẫn truyền lại nguyên cái gốc cho con như bao thế hệ người Việt đi trước. Dù có hội nhập đến đâu, người Việt đã, đang và vẫn giữ được những nét đẹp truyền thống đạo lý dân tộc. Đó là tinh thần đoàn kết, tương trợ, chung thuỷ và hiếu thuận. "Thương nhau tre chẳng ở riêng/ Luỹ thành từ đó mà nên hỡi người/ Cho dù thân gãy cành rơi/ Vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho con".
"Tre già, măng mọc" đó là quy luật lẽ thường của tự nhiên. Điều quý giá nhất là tre để lại "cái gốc" cho con. Đó cũng là cái gốc đạo lý, nền tảng sinh thành và dung dưỡng khí phách, phẩm chất một dân tộc. Thế hệ trước ngã xuống vì độc lập dân tộc, thế hệ sau phải củng cố và phát triển những thành quả ấy. Và dù thế nào măng cũng vẫn mang cái "dáng thẳng, thân tròn" ấy, cũng như người Việt Nam qua bao thế hệ vẫn gìn giữ và kế thừa những giá trị đạo đức ấy.
Ngày nay, khi nhịp sống thành phố xô bồ, con người ta lại có xu hướng thích tìm về với đồng nội, với luỹ tre, giếng nước, con đò. Về với làng với xóm là về với khóm tre, với bình an tâm hồn. Đối với những người con xa quê, mỗi lần về quê là thêm một lần cảm nhận, phát hiện chính mình. Ở đó có luỹ tre xanh, có cha mẹ hiền, về quê là để được hít hà mùi "quê hương".
Hình ảnh của tre luôn gợi nhớ về một làng quê Việt Nam mộc mạc, con người Việt Nam thanh cao, giản dị mà chí khí.
Phải, "quê hương" có mùi rất lạ, mà thành phố xô bồ, khói bụi không bao giờ có được. Yêu lắm sự thanh thản, bình yên, mát mẻ của những khóm tre làng. Ở đó có những người cha trưa hè nóng bức ngồi râm ran chuyện trò việc làng việc nước dưới tán lá tre cùng những người hàng xóm thân thuộc, ở đó, có các em tôi nô đùa hớn hở với con diều...Chỉ cần một giờ về quê thôi, đôi khi chỉ là những lần chớp nhoáng, nhưng gói gém theo bao nhiêu là thương yêu, để rồi mang lên thành phố, mỗi khi nhớ về, lại có thêm động lực để sống, làm việc, để khát khao... Mai sau, mai sau, mai sau...Đất xanh, tre mãi xanh màu tre xanh! Cây tre xứng đáng là biểu tượng của đất nước, con người Việt Nam. Dù thời gian có trôi đi, và dù đất nước có hội nhập đến đâu, những giá trị tinh thần chung của dân tộc không bao giờ mất. Tôi đố bạn tìm được nơi nào đó trên thế giới, giữa phố phường đô thị mà có nhiều những người buôn bán nhỏ như ở Hà Nội. Gánh trên vai bao nỗi nhọc nhằn, thì tre chính là chiếc đòn gánh giúp họ mưu sinh, tồn tại.
Giờ đây tre lại xanh ngắt một màu. Dù thế nào tre vẫn mãi xanh như màu xanh ước vọng của đất nước thời hội nhập. Cây tre- không chỉ là biểu tượng  của khí phách, tâm hồn Việt. Tre còn toát lên một màu xanh tươi mới- của vận hội và cả những thách thức đang chờ đợi đất nước....
Rời quê lên Hà Nội, hoà mình vào cuộc sống bon chen, đầy áp lực, vẳng bên tai tôi tiếng lá tre xào xạc, khuất sau lưng là một màu xanh ngắt....Tôi lại xa quê lên thành phố, hành trang mang theo vẫn là màu xanh ngắt của lũy tre làng! Vẳng tiếng ca của bà và hình ảnh bé con ngon lành, ngoan ngoãn trong giấc ngủ vẹn đầy: " Ầu ơ.............."




                                                                      Có một lũy tre làng trong ký ức tuổi thơ
(Dân trí) - Tôi sinh ra ở một vùng trung du xa hút hắt. Tuổi thơ của tôi gắn chặt với miền quê cằn cỗi ấy. Nhưng đến năm tôi lên lớp năm, sau những trận đỏ đen ngút trời, bố mang cả gia đình bỏ đi biệt xứ.
Có những buổi chiều lặng gió, đứng giữa vườn dừa bạt ngàn của vùng Đông Nam Bộ, tôi ngơ ngác xăm soi từng thân cây một mong tìm lại chút thân quen. Cây tre bắc bộ ám ảnh tôi suốt cuộc đời. Những khi ấy tôi nhớ da diết cơn mưa lá tre ào ào của một vùng mờ mờ trong kí ức. Tất cả chỉ là ảo vọng của một đứa con tha hương sống lay lắt bên kia bờ hoài niệm mà thôi.

Quê tôi có nhiều loại cây lắm: Cây mít, cây trôi, cây quéo… Mỗi độ bão tràn về, thế nào sáng ra cũng có dăm cây cổ thụ đổ vật xuống, chắn kín đường làng. Tôi hỏi ông tôi: “Ông ơi! Sao chúng lại bị đổ hả ông?”. Ông bảo tôi rằng: “Vì chúng chỉ đứng đơn độc cháu ạ!”. Tôi “À” một tiếng rõ to rồi phóng mắt nhìn ra xa, rặng tre ngoài kia quấn chặt lấy nhau vẫn đứng hiên ngang trong gió.

Cây tre quê tôi cao vút, được ghép lại bởi hàng chục đốt xanh ngắt mỡ màng nhưng cũng có khi vàng óng ả. Lũ trẻ chúng tôi phân loại từng rặng tre: Búi tre ông Nghi, búi tre ông Đản, tre ngộc, tre hóp… Búi tre ông Nghi gày xơ xác, thấp lè tè nhưng chắc đến đanh lại. Cứ mỗi mùa quả đay đến vụ, quả xoan ương sắp chín hay thậm chí sang cả mùa cơm nguội, trưa nào lũ trẻ chúng tôi cũng rình mò, lén lút đâu đó quanh khóm tre ít ỏi. Chỉ lơ một cái, y rằng một cây cũng bị chặt phéng ngay đem về chia nhau làm súng hóp. Thằng nào chẳng may bị bắt, mặt nó xanh lét đến thảm hại bởi ông Nghi, chủ nhà, đã từng nổi tiếng vì thành tích chặt đứt đuôi con bò nhà thằng Tưởng chỉ vì nó dại dột liếm vài cái lá tre.

Búi tre ngộc được biết đến nhiều hơn cả. Tôi còn đặt cho nó cái tên tre tây. Vì nghe bà kể bọn tây hồi xưa cũng to như tre ngộc vậy. Muốn nhìn thấy ngọn, tôi phải khum khum hai tay, nheo mắt lại. Trên đó chim kéo về hàng đàn vì chẳng mấy khi có người trèo lên được. Mo tre ngộc to như cái quạt nan, vàng xộm, đem bán cho các nhà đan nón phải đắt gấp hai tre thường. Mỗi độ thu về, nhiều đứa có khi chỉ vì tranh nhau cái mo tre mà  choảng nhau sứt đầu mẻ trán.

Ông tôi có tài làm mọi thứ bằng tre. Khoảng tháng tư, tháng năm hàng năm, lúc bão bắt đầu tràn về, ông ngả bớt những cây tre rìa búi sắp đổ. Sau đó ông ngâm xuống ao đến vụ cá đầu đông. Vào những ngày giá rét, tôi ngồi xem ông cắt khúc cây tre như cắt khúc một con lươn khổng lồ vừa kéo được dưới ao lên. Chỉ từ vài khúc tre như vậy ông tôi đã biến hoá ra bao nhiêu thứ: Cái rổ, cái giá, cái giần, cái sàng…

Ông tự làm cho mình một cái điếu cày rất đẹp, châm lửa hút thuốc bằng đóm tự chẻ luôn. Những ngày xẻ thịt cây tre, ông không bao giờ quên đan cho tôi cái bu gà trọi và cái giậm treo lên gác bếp chờ mùa lụt sang năm. Ở một nơi xa lắm, nơi cây tre chỉ có trong từ điển, tôi nhớ quá gốc tre cùng ông trồng những ngày cuối tôi sắp phải ra đi.

Mùa lá tre về, đâu đâu cũng giăng mắc bao chiếc thuyền cong cong, xoay trong gió. Lá tre rụng ào ào như trút, rụng triền miên. Cây tre trút đi chiếc áo để mùa đông đứng xo ro chịu rét. Nhưng khi ấy bà tôi vào mùa. Vẫn chiếc áo nâu sờn khâu bao lần chỉ bên ngoài và bên trong là chiếc áo cánh gián toả ra mùi trầu hăng hăng quen thuộc. Một tay cầm chổi rễ cùn, tay kia bà kéo lê chiếc bao tải cũ mèm len lỏi khắp các búi tre.

Bà luồn bàn tay nâu xạm, đầy những đường gân vơ từng chiếc lá. Tôi chạy theo bà, thi thoảng cũng bẻ được vài cành củi rồi lại biến tót ngay để mặc bà nhặt mùa thu mang về. Tôi nhớ nhất cái dáng ngồi đun bếp của bà. Bếp thì nhỏ lại ọp ẹp. Mùa hè khói quyện đặc, cay xè mắt. Thế mà bà vẫn ngồi còng gập trên chiếc ghế con đủn đều đặn từng nắm lá tre dọc theo năm tháng.

Mùa đông bà dậy từ tinh mơ bắc bếp nhẩn nha luộc cho tôi nồi khoai củ mật. Nhớ ngày ấy, mỗi sáng vùng dậy, tôi không bao giờ chịu mặc quần áo rét ngay mà đánh chiếc quần cộc lao vù qua sân xuống bếp bó gối tựa lưng vào người bà. Ngồi buồn, tôi kiếm cành rào nhỏ phá bĩnh bếp lửa, lúc thì tranh bà đủn lá tre, lúc thì lấy tàn than giết lũ kiến xung quanh. Bà giơ cao cái que bời cháy nham nhở dứ dứ, tôi chạy biến.

Nhớ về tuổi thơ tôi nhớ day dứt nồi khoai củ mật và cái que bời cháy nham nhở ngày nào. Ngày tôi đi, lưng bà còng hẳn rồi. Tay bà thì run run ghê lắm. Ấy thế mà bà băm rau lang nấu cám cho lợn lại chẳng bao giờ bị đứt tay như tôi. Bà bảo tôi: “Nó có cữ rồi”. Tôi gật gật dẫu chẳng biết “cữ” là gì cả. Nhưng bữa cơm bà chan canh khó thực. Nước cứ sóng sánh trực trào ra bên ngoài. Tôi bất ngờ reo lên: “A! Bà chan canh không có cữ nhớ”. Bà bật cười móm mém: “Cha bố anh!”.

Bao giờ tôi cũng xí phần chan canh cho bà. Thế mà tôi lại phải đi…

Hôm đó ông bà đưa tiễn chúng tôi ra mãi tận đầu làng. Ông thì yên lặng nhưng bà thỉnh thoảng lại lau mắt bằng chiếc khăn mùi xoa mà lần nào đi chùa về bà cũng gói trong đó không quả chuối thì cái oản cúng cho tôi. Chiếc xe xa dần, xa dần. Tay bà run rẩy trong hơi lạnh. Lá tre đổ ào ào như bão.

Mùa này chắc lá tre quê tôi bắt đầu rụng. Hôm trước đọc báo thấy mặt hàng mây, tre đan xuất khẩu của Việt Nam được giá. Vui thì vui thật nhưng chẳng biết lũ trẻ quê tôi có còn chỗ để móc mo tre nữa hay không?

Cách đây vài tháng tôi bất chợt gặp thằng bạn ấu thơ phiêu dạt vào đây. Nó kể “quê mình giờ lấy đâu còn lá tre”. Ông bà nội tôi thì đã mất cả rồi. Thế mà chẳng hiểu sao tôi vẫn day dứt về một mùa lá tre. Có lẽ tôi phải về thôi. Biết đâu búi tre ông trồng cho tôi chả còn…

Nguyễn Anh Thế

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét