http://www.binhduong.gov.vn/vn/news_detail.php?id=9336&idcat=17&idcat2=5

Thứ Sáu, 12 tháng 10, 2012
Lễ kỷ niệm ngày doanh nhân VN
http://www.binhduong.gov.vn/vn/news_detail.php?id=9336&idcat=17&idcat2=5
http://www.binhduong.gov.vn/vn/news_detail.php?id=9336&idcat=17&idcat2=5
http://www.binhduong.gov.vn/vn/news_detail.php?id=9336&idcat=17&idcat2=5
Thứ Tư, 19 tháng 9, 2012
Mùa thu tuyệt đẹp trên những cánh rừng lá phong
A- A A+
Canada là điểm đến tuyệt vời cho những ai yêu thích mùa thu. Sắc màu ấn tượng của rừng thu với những con đường êm ái trải đầy lá phong đỏ đón bước chân người- có thể tìm thấy ở tất cả những khu rừng của Canada vào tháng 9 và tháng 10...
Mùa thu tuyệt đẹp trên những cánh rừng lá phong
A- A A+
Canada là điểm đến tuyệt vời cho những ai yêu thích mùa thu. Sắc màu ấn tượng của rừng thu với những con đường êm ái trải đầy lá phong đỏ đón bước chân người- có thể tìm thấy ở tất cả những khu rừng của Canada vào tháng 9 và tháng 10...
Công viên Algonquin, bang Ontario
Hẻm núi Agawa, bang Ontario
Thứ Sáu, 14 tháng 9, 2012
Thơ Tố Hữu
Rứa là hết! Chiều ni em đi mãi
Còn mong chi ngày trở lại Phước ơi!
Quên làm sao, em hỡi, lúc chia phôi
Bởi khác cảnh, hai đứa mình nghẹn nói.
Em len lén, cúi đầu, tay xách gói
Áo quần dơ, cắp chiếc nón le te
Vẫn chưa thôi, lời day dứt nặng nề
Hàng dây tiếng rủa nguyền trên miệng chủ!
Biết không em, nỗi lòng anh khi đó?
Nó tơi bời, đau đớn lắm em ơi!
Bàn chân em còn luyến tiếc không rời
Nơi em đã cùng anh vui phút chốc.
Những đêm tối, anh viết bài em học
Cho em quên bớt nỗi nhọc ban ngày
Nơi bao nhiêu âu yếm tuổi thơ ngây
Anh đã trút cho lòng em tất cả!
Em ngoái cổ nhìn anh: ta chỉ trả
Thầm cho nhau đôi mắt ướt li sầu!
Biết làm sao, em hỡi, nói cùng nhau?
Tiếng chưởi mắng vẫn phun hoài, nhục nhã!
Thì em hỡi! Đi đi, đừng tiếc nữa!
Ngại ngùng chi? Nấn ná chỉ thêm phiền!
Đi đi em, can đảm bước chân lên
Ừ đói khổ phải đâu là tội lỗi!
Anh mới hiểu: càng ngậm ngùi khổ tủi
Càng dày thêm uất hận của lòng ta
Nuôi đi em, cho đến lớn, đến già
Mầm hận ấy, trong lồng xương ống máu
Để đêm nóng mai kia hồn chiến đấu
Mà hôm nay anh đã nhóm trong lòng!
Huế, tháng 2 - 1938
- TỐ HỮU -
Bà má Hậu Giang- Tập thơ Từ ấy
Trời Hậu Giang, tù và dậy rúc
Phèng la kêu, trống giục vang đồng
Đường quê đỏ rực cờ hồng
Giáo lê sáng đất, tầm vông nhọn trời
Quyết một trận, quét đời nô lệ
Quăng máu xương, phá bẻ xiềng gông!
Hỡi ôi! Việc chửa thành công
Hôm nay máu chảy đỏ đồng Hậu Giang
Giặc lùng, giặc đốt xóm làng
Xác xơ cây cỏ, tan hoang cửa nhà
Một vùng trắng bãi tha ma
Lặng im, không một tiếng gà gáy trưa
Có ai biết, ai ngờ trong đó
Còn chơ vơ một ổ lều con
Đạn bom qua, hãy sống còn
Núp sau lưng rộng một hòn đá to.
Có ai biết trong tro còn lửa
Một má già lần lữa không đi
Ở đây sóng gió bất kỳ
Má ơi, má ở làm chi một mình ?
Rừng một dải U Minh tối sớm
Má lom khom đi lượm củi khô
Ngày đêm củi chất bên lò
Ai hay má cất củi khô làm gì?
Hay má lẫn quên vì tuổi tác
Hay má liều một thác cho yên ?
Bỗng đâu một buổi mai lên
Trên đường quê ấy qua miền nghĩa quân
Một tán quỷ rần rần rộ rộ
Mắt mèo hoang, mũi chó, râu dê
Súng trường nhọn hoắt lưỡi lê
Khét nồng khí chết, tanh dề máu oan!
Chúng rảo bước. Lính quan nện gót
Mắt nhìn quanh lục mót dạng người
Đồng không, lạnh vắng, im hơi
Chỉ đôi bóng quạ ngang trời loáng qua
Ách là! Thằng quan ba dừng bước
Rút ống dòm, và ngước mắt nheo
Xa xa, sau lớp nhà xiêu
Một tia khói nhỏ ngoằn ngoèo bay lên...
Hắn khoái trá cười điên sằng sặc
Nhe hàm răng sáng quắc như gươm
Vẫy tay lũ tớ gườm gườm
Như bầy chó đói chực chồm miếng ăn.
Rồi lặng lặng bước chân hùm sói
Tiến dần lên tia khói, vây quanh...
Má già trong túp lều tranh
Ngồi bên bếp lửa, đun cành củi khô
Một mình má, một nồi to
Cơm vừa chín tới, vùi tro, má cười...
Chết! Có tiếng gì rơi sột soạt ?
Má già run, trán toát mồ hôi
Chạy đâu ? Thôi chết, chết rồi!
Gót giày đâu đã đạp rơi liếp mành.
Một thằng cướp, mắt xanh mũi lõ
Đốc gươm dài tuốt vỏ cầm tay
Rung rinh bậc cửa tre gầy
Nghênh ngang một ống chân đầy lối đi!
Hắn rướn cổ, giương mi, trơn mắt
Như hổ mang chợt bắt được mồi
Trừng trừng trông ngược trông xuôi
Trông vào bếp lửa: Một nồi cơm to.
Hắn rống hét: "Con bò cái chết!
Một mình mày ăn hết này sao ?
Đừng hòng che được mắt tao
Khai mau, du kích ra vào nơi đâu ?
Khai mau, tao chém mất đầu!"
Má già lẩy bẩy như tàu chuối khô
Má ngã xuống bên lò bếp đỏ
Thằng giặc kia đứng ngõ trừng trừng
Má già nhắm mắt, rưng rưng
"Các con ơi! ở trong rừng U Minh
Má có chết, một mình má chết
Cho các con trừ hết quân Tây!"
Thằng kia bỗng giậm gót giày
Đạp lên đầu má: "Mẹ mày, nói không?"
Lưỡi gươm lạnh toát kề hông
"Các con ơi! Má quyết không khai nào!"
Sức đâu như ngọn sóng trào
Má già đứng dậy, ngó vào thằng Tây
Má hét lớn: "Tụi bay đồ chó!
Cướp nước tao, cắt cổ dân tao!
Tao già không sức cầm dao
Giết bay, có các con tao trăm vùng!
Con tao, gan dạ anh hùng
Như rừng đước mạnh, như rừng chàm thơm!
Thân tao chết, dạ chẳng sờn!"
Thương ôi! Lời má lưỡi gươm cắt rồi!
Một dòng máu đỏ lên trời
Má ơi, con đã nghe lời má kêu!
Nước non muôn quỷ ngàn yêu
Còn in bóng má sớm chiều Hậu Giang.
Đầu năm 1941
Còn mong chi ngày trở lại Phước ơi!
Quên làm sao, em hỡi, lúc chia phôi
Bởi khác cảnh, hai đứa mình nghẹn nói.
Em len lén, cúi đầu, tay xách gói
Áo quần dơ, cắp chiếc nón le te
Vẫn chưa thôi, lời day dứt nặng nề
Hàng dây tiếng rủa nguyền trên miệng chủ!
Biết không em, nỗi lòng anh khi đó?
Nó tơi bời, đau đớn lắm em ơi!
Bàn chân em còn luyến tiếc không rời
Nơi em đã cùng anh vui phút chốc.
Những đêm tối, anh viết bài em học
Cho em quên bớt nỗi nhọc ban ngày
Nơi bao nhiêu âu yếm tuổi thơ ngây
Anh đã trút cho lòng em tất cả!
Em ngoái cổ nhìn anh: ta chỉ trả
Thầm cho nhau đôi mắt ướt li sầu!
Biết làm sao, em hỡi, nói cùng nhau?
Tiếng chưởi mắng vẫn phun hoài, nhục nhã!
Thì em hỡi! Đi đi, đừng tiếc nữa!
Ngại ngùng chi? Nấn ná chỉ thêm phiền!
Đi đi em, can đảm bước chân lên
Ừ đói khổ phải đâu là tội lỗi!
Anh mới hiểu: càng ngậm ngùi khổ tủi
Càng dày thêm uất hận của lòng ta
Nuôi đi em, cho đến lớn, đến già
Mầm hận ấy, trong lồng xương ống máu
Để đêm nóng mai kia hồn chiến đấu
Mà hôm nay anh đã nhóm trong lòng!
Huế, tháng 2 - 1938
- TỐ HỮU -
Bà má Hậu Giang- Tập thơ Từ ấy
Trời Hậu Giang, tù và dậy rúc
Phèng la kêu, trống giục vang đồng
Đường quê đỏ rực cờ hồng
Giáo lê sáng đất, tầm vông nhọn trời
Quyết một trận, quét đời nô lệ
Quăng máu xương, phá bẻ xiềng gông!
Hỡi ôi! Việc chửa thành công
Hôm nay máu chảy đỏ đồng Hậu Giang
Giặc lùng, giặc đốt xóm làng
Xác xơ cây cỏ, tan hoang cửa nhà
Một vùng trắng bãi tha ma
Lặng im, không một tiếng gà gáy trưa
Có ai biết, ai ngờ trong đó
Còn chơ vơ một ổ lều con
Đạn bom qua, hãy sống còn
Núp sau lưng rộng một hòn đá to.
Có ai biết trong tro còn lửa
Một má già lần lữa không đi
Ở đây sóng gió bất kỳ
Má ơi, má ở làm chi một mình ?
Rừng một dải U Minh tối sớm
Má lom khom đi lượm củi khô
Ngày đêm củi chất bên lò
Ai hay má cất củi khô làm gì?
Hay má lẫn quên vì tuổi tác
Hay má liều một thác cho yên ?
Bỗng đâu một buổi mai lên
Trên đường quê ấy qua miền nghĩa quân
Một tán quỷ rần rần rộ rộ
Mắt mèo hoang, mũi chó, râu dê
Súng trường nhọn hoắt lưỡi lê
Khét nồng khí chết, tanh dề máu oan!
Chúng rảo bước. Lính quan nện gót
Mắt nhìn quanh lục mót dạng người
Đồng không, lạnh vắng, im hơi
Chỉ đôi bóng quạ ngang trời loáng qua
Ách là! Thằng quan ba dừng bước
Rút ống dòm, và ngước mắt nheo
Xa xa, sau lớp nhà xiêu
Một tia khói nhỏ ngoằn ngoèo bay lên...
Hắn khoái trá cười điên sằng sặc
Nhe hàm răng sáng quắc như gươm
Vẫy tay lũ tớ gườm gườm
Như bầy chó đói chực chồm miếng ăn.
Rồi lặng lặng bước chân hùm sói
Tiến dần lên tia khói, vây quanh...
Má già trong túp lều tranh
Ngồi bên bếp lửa, đun cành củi khô
Một mình má, một nồi to
Cơm vừa chín tới, vùi tro, má cười...
Chết! Có tiếng gì rơi sột soạt ?
Má già run, trán toát mồ hôi
Chạy đâu ? Thôi chết, chết rồi!
Gót giày đâu đã đạp rơi liếp mành.
Một thằng cướp, mắt xanh mũi lõ
Đốc gươm dài tuốt vỏ cầm tay
Rung rinh bậc cửa tre gầy
Nghênh ngang một ống chân đầy lối đi!
Hắn rướn cổ, giương mi, trơn mắt
Như hổ mang chợt bắt được mồi
Trừng trừng trông ngược trông xuôi
Trông vào bếp lửa: Một nồi cơm to.
Hắn rống hét: "Con bò cái chết!
Một mình mày ăn hết này sao ?
Đừng hòng che được mắt tao
Khai mau, du kích ra vào nơi đâu ?
Khai mau, tao chém mất đầu!"
Má già lẩy bẩy như tàu chuối khô
Má ngã xuống bên lò bếp đỏ
Thằng giặc kia đứng ngõ trừng trừng
Má già nhắm mắt, rưng rưng
"Các con ơi! ở trong rừng U Minh
Má có chết, một mình má chết
Cho các con trừ hết quân Tây!"
Thằng kia bỗng giậm gót giày
Đạp lên đầu má: "Mẹ mày, nói không?"
Lưỡi gươm lạnh toát kề hông
"Các con ơi! Má quyết không khai nào!"
Sức đâu như ngọn sóng trào
Má già đứng dậy, ngó vào thằng Tây
Má hét lớn: "Tụi bay đồ chó!
Cướp nước tao, cắt cổ dân tao!
Tao già không sức cầm dao
Giết bay, có các con tao trăm vùng!
Con tao, gan dạ anh hùng
Như rừng đước mạnh, như rừng chàm thơm!
Thân tao chết, dạ chẳng sờn!"
Thương ôi! Lời má lưỡi gươm cắt rồi!
Một dòng máu đỏ lên trời
Má ơi, con đã nghe lời má kêu!
Nước non muôn quỷ ngàn yêu
Còn in bóng má sớm chiều Hậu Giang.
Đầu năm 1941
hoacuc:
Dậy mà đi - Tập thơ Từ ấy
Dậy mà đi! Dậy mà đi!
Đừng tiếc nữa, can chi mà tiếc mãi ?
Ai chiến thắng mà không hề chiến bại
Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần ?
Huống đường đi còn lắm bước gian truân
Đây chưa phải trận sau cùng chiến đấu!
Thì đứng dậy, xoa tay và tự bảo:
Chỉ còn đây sức lực hãy còn đây!
Lòng không nghèo tin tưởng ở tương lai
Chân có ngã thì đứng lên, lại bước.
Thua ván này, ta đem bầy ván khác,
Có can chi, miễn được cuộc sau cùng
Dậy mà đi, hy vọng sẽ thành công
Rút kinh nghiệm ở bao lần thất bại:
Một lần ngã là một lần bớt dại
Để thêm khôn một chút nữa trong người.
Dậy mà đi, hỡi bạn dân nghèo ơi!
Tháng 5-1941
Dậy mà đi - Tập thơ Từ ấy
Dậy mà đi! Dậy mà đi!
Đừng tiếc nữa, can chi mà tiếc mãi ?
Ai chiến thắng mà không hề chiến bại
Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần ?
Huống đường đi còn lắm bước gian truân
Đây chưa phải trận sau cùng chiến đấu!
Thì đứng dậy, xoa tay và tự bảo:
Chỉ còn đây sức lực hãy còn đây!
Lòng không nghèo tin tưởng ở tương lai
Chân có ngã thì đứng lên, lại bước.
Thua ván này, ta đem bầy ván khác,
Có can chi, miễn được cuộc sau cùng
Dậy mà đi, hy vọng sẽ thành công
Rút kinh nghiệm ở bao lần thất bại:
Một lần ngã là một lần bớt dại
Để thêm khôn một chút nữa trong người.
Dậy mà đi, hỡi bạn dân nghèo ơi!
Tháng 5-1941
donghai:
Phần 1- vài nét về tiểu sử
Tố Hữu (1920-2002) tên Khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê ở làng Phù Lai, Nay thuộc xã Quang Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Ông thân sinh Tố Hữu là một nhà nho nghèo, bà mẹ nhà thơ cũng là con của một nhà nho, cả hai người đã truyền cho con tình yêu tha thiết với văn học dân gian. Năm 12 tuổi Tố Hữu mồ côi mẹ, một năm sau lại xa gia đình vào học trường Quốc học Huế. Bước vào tuổi thanh niên, Tố Hữu tham gia phong trào đấu tranh cách mạng và trở thành người lãnh đạo chủ chốt của Đoàn thanh niên Dân chủ ở Huế, rồi được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông Dương. Cuối tháng 4-1939, Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt giam vào nhà lao thừa thiên, rồi lần lượt bị giam giữ ở nhiều nhà tu ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. Tháng 3-1942, Tố Hữu vượt ngục Đác Lay(Kontum), tìm ra Thanh Hóa, bắt liên lạc với tổ chức cách mạng, tiếp tục hoạt động. trong CMT 8 -1945, Tố Hữu là Chủ tịch ủy khởi nghĩa ở Huế. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Tố Hữu công tác ở Thanh Hóa rồi lên Việt Bắc đặc trách về văn hóa văn nghệ ở cơ quan Trung ương Đảng. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ và cho đến năm 1986, Tố Hữu liên tục giữ những cương vị trọng yếu trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước (từng là Ủy viên Bộ Chính Trị Đảng Cộng SẢn Việt NAm, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch hội Đông Bộ trưởng) năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Phần 1- vài nét về tiểu sử
Tố Hữu (1920-2002) tên Khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê ở làng Phù Lai, Nay thuộc xã Quang Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Ông thân sinh Tố Hữu là một nhà nho nghèo, bà mẹ nhà thơ cũng là con của một nhà nho, cả hai người đã truyền cho con tình yêu tha thiết với văn học dân gian. Năm 12 tuổi Tố Hữu mồ côi mẹ, một năm sau lại xa gia đình vào học trường Quốc học Huế. Bước vào tuổi thanh niên, Tố Hữu tham gia phong trào đấu tranh cách mạng và trở thành người lãnh đạo chủ chốt của Đoàn thanh niên Dân chủ ở Huế, rồi được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông Dương. Cuối tháng 4-1939, Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt giam vào nhà lao thừa thiên, rồi lần lượt bị giam giữ ở nhiều nhà tu ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. Tháng 3-1942, Tố Hữu vượt ngục Đác Lay(Kontum), tìm ra Thanh Hóa, bắt liên lạc với tổ chức cách mạng, tiếp tục hoạt động. trong CMT 8 -1945, Tố Hữu là Chủ tịch ủy khởi nghĩa ở Huế. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Tố Hữu công tác ở Thanh Hóa rồi lên Việt Bắc đặc trách về văn hóa văn nghệ ở cơ quan Trung ương Đảng. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ và cho đến năm 1986, Tố Hữu liên tục giữ những cương vị trọng yếu trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước (từng là Ủy viên Bộ Chính Trị Đảng Cộng SẢn Việt NAm, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch hội Đông Bộ trưởng) năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Thứ Tư, 22 tháng 8, 2012
Thứ Sáu, 22 tháng 6, 2012
Quẳng gánh lo đi mà vui sống
Quẳng gánh lo đi mà vui sống

- Quí vị thử đoán xem ly nước này nặng bao nhiêu?
- Điều đó còn phụ thuộc anh cầm nó trong bao lâu chứ.
- Đúng vậy, nếu tôi cầm nó trong một phúc thì không có gì đáng nói, nhưng nếu tôi cầm nó trong một tiếng đồng hồ thì tay tôi sẽ mỏi. Còn nếu tôi cầm nó cả ngày , quý vị sẽ gọi xe cấp cứu cho tôi. Cùng một khối lượng nếu tôi mang nó càng lâu thì sẽ trở nên nặng nề hơn.
Trong cuộc sống cũng vậy nếu chúng ta cứ tiếp tục gánh nặng nó sẽ càng ngày trở nên trầm trọng, không sớm gì muộn chúng ta sẽ gục ngã.”Điều mà quý vị phải làm là đặt ly nước xuống, nghĩ ngơi một lát rồi tiếp tục cầm nó lên”
Thỉnh thoảng chúng ta phải biết đặt gánh nặng cuộc sống xuống, nghĩ ngơi lấy sức để còn tiếp tục mang nó trong quãng đời tiếp theo.Khi bạn trở về nhà, hãy quẳng lo âu công việc ngoài cửa.Ngày mai bạn sẽ nhặt nó lên và tiếp tục mang. Còn bây giờ hãy giải trí và thư giản.
Thứ Hai, 18 tháng 6, 2012
Ở hai đầu nỗi nhớ
http://www.youtube.com/watch?v=hSbwioyVE9s&feature=related
Có một không gian nào.. đo chiều dài nỗi nhớ
Có khoảng mênh mông nào.. sâu thẳm hơn tình thương
Ở đâu đây nỗi nhớ, anh mơ về bên em
Ngôi sao như xuống thấp cho.. ta gần nhau thêm
Đêm nghe tiếng mưa rơi,
Đếm mấy triệu hạt rồi
Mà.. chưa vơi nỗi nhớ
Ở hai đầu nỗi nhớ yêu và thương sâu hơn
Ở hai đầu nỗi nhớ nghĩa tình đằm thắm hơn !
Có một không gian nào.. đo chiều dài nỗi nhớ
Có khoảng mênh mông nào.. sâu thẳm hơn tình thương
Ở đâu đây nỗi nhớ, anh mơ về bên em
Ngôi sao như xuống thấp cho.. ta gần nhau thêm
Đêm nghe tiếng mưa rơi,
Đếm mấy triệu hạt rồi
Mà.. chưa vơi nỗi nhớ
Ở hai đầu nỗi nhớ yêu và thương sâu hơn
Ở hai đầu nỗi nhớ nghĩa tình đằm thắm hơn !
Thứ Sáu, 15 tháng 6, 2012
Thứ Năm, 7 tháng 6, 2012
Thứ Ba, 5 tháng 6, 2012
Em ơi, Hà Nội phố
Ta còn em mùi hoàng lan
Ta còn em mùi hoa sữa
Con đường vắng rì rào cơn mưa nhỏ
Ai đó chờ ai tóc xõa vai mềm
Ta còn em cây bàng mồ côi mùa đông
Ta còn em nóc phố mồ côi mùa đông
Mảnh trăng mồ côi mùa đông
Mùa đông năm ấy
Tiếng dương cầm trong căn nhà đổ
Tan lễ chiều sao còn vọng tiếng chuông ngân
Ta còn em một màu xanh thời gian
Một chiều phai tóc em bay
Chợt nhòa, chợt hiện
Người nghệ sĩ lang thang hoài trên phố
Bỗng thấy mình chẳng nhớ nổi một con đường
Ta còn em hàng phố cũ rêu phong
Và từng mái ngói xô nghiêng
Nao nao kỷ niệm
Chiều Hồ Tây lao xao hoài con sóng
Chợt hoàng hôn về tự bao giờ
Hà Nội nét xưa còn đó

Hồ Tây trong ánh hoàng hôn lộng lẫy...
Nằm ở trung tâm châu thổ sông Hồng với vị trí địa lý thuận lợi, người dân thông minh thanh lịch, Thăng Long - Hà Nội, trải qua ba triều đại: Lý, Trần, Lê với hơn 800 năm trị vì, mà di tích Hoàng Thành vừa được khai quật là một bằng chứng. Những kiến trúc phương Đông của quá khứ hòa trộn với những kiến trúc phương Tây của hiện tại, những đền chùa cổ kính, những tòa biệt thự, những công trình văn hóa lớn với lối kiến trúc Pháp và rất nhiều công trình nguy nga mới mọc lên tạo cho Hà Nội nét độc đáo của một đô thị vừa cổ kính vừa hiện đại.

Nhà thờ lớn Hà Nội mang kiến trúc Pháp...
Hà Nội còn quyến rũ bởi thiên nhiên tươi đẹp với những hàng cây rợp bóng và hồ nước lung linh. Mỗi mùa đều có dáng vẻ riêng. Mùa xuân hoa sữa nở trắng dốc Ngọc Hà. Hè về, hoa sấu ngọt hương, đường Lý Thường Kiệt chói lòa màu phượng đỏ. Thu sang, hàng xà cừ lão đại trên đường Hoàng Diệu thả ngàn lá dát vàng không gian. Mùa đông, những phố cổ trở nên gợi cảm bởi thân bàng trụi lá...

Thu Hà Nội...
Ta có thể vui vì Hà Nội đã có những ngôi nhà cao tầng sáng choang cửa kính, nhưng dường như ta cảm thấy vui hơn khi đi một vòng Hồ Gươm để ngắm những cây hoa gạo đỏ, cây lộc vừng chín gốc soi bóng mặt hồ, cây liễu thướt tha buông rèm mượt như tóc người con gái Hà Nội. Cầu Thê Húc như chiếc lược đỏ đưa du khách vào đền Ngọc Sơn trên Hồ Hoàn Kiếm. Những khu phố cổ dù đã bao dầu dãi thời gian nhưng ở đó ta có thể bắt gặp điều gì đó vừa quen vừa lạ nơi những căn nhà được xây dựng cách đây hàng thế kỷ. Dẫu đã nhiều thay đổi nhưng những ký ức xưa, câu chuyện xưa vẫn thoảng như đâu đó trên những mái ngói rêu phong.

Khác với những ngôi nhà thường thấy trong các làng mạc cổ xưa của vùng đồng bằng Bắc Bộ, nhà ở đô thị cổ Hà Nội được hình thành từ những sáng tạo kiến trúc của những người thợ trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Hà Nội - kẻ chợ, vốn dĩ sống cụm thành từng phường hội, kinh doanh chuyên biệt một mặt hàng nào đó, tạo nên các phố có ngành nghề kinh doanh thuộc nền kinh tế thương nghiệp nhỏ riêng biệt, tồn tại bên cạnh khu thành cổ. Chính điều này đã tạo nên một Hà Nội với những phố nghề nổi tiếng: Hàng Bạc, phố Lò Rèn, phố Thuốc Bắc... Chẳng khó khăn gì để gặp những nghệ nhân với đôi bàn tay khéo léo, tài hoa đã làm nên những kiệt tác say đắm lòng người: đúc đồng, chế tác đồ vàng, bạc, sơn mài, gốm sứ, dệt may, tơ lụa, đồ gỗ, mây tre... Ở đất này có nghề gì mà không có những đôi bàn tay tài hoa nghệ sĩ. Chỉ mười phút xe hơi, ta sẽ đặt chân vào làng nghề Kiêu Kỵ với bạc quỳ, vàng quỳ... Sẽ bất ngờ khi lạc vào thế giới của gốm sứ Bát Tràng, ngắm dòng sông trên bến dưới thuyền dập dìu những ghe hàng đầy ắp...

Chiều trên sông Hồng...
Nằm ở phía nam của khu hoàng thành xưa, bao quanh bởi những bức tường cổ kính, Văn Miếu, trung tâm Nho giáo và Nho học, nơi đào tạo nhân tài bậc nhất xưa kia đã tồn tại và hiện diện ít nhất 930 năm, hằng ngày tấp nập du khách đến chiêm ngưỡng trường đại học đầu tiên của Việt Nam.

Quốc Tử Giám, trường Đại Học đầu tiên của Việt Nam
Hãy đến với chùa Một Cột bắt nguồn từ giấc mơ lành thấy Phật Quan Âm dắt tay lên tòa sen của vua Lý Thái Tông (1028-1084) hay một phần của Hoàng Thành hoa lệ trải suốt các triều đại Lý - Trần - Lê. Hoặc đơn giản hơn nhẹ bước trên cây cầu Long Biên trăm tuổi nối nhịp sống đôi bờ. Đến và đi, để mà cảm nhận, để thấy lòng mình trầm lại, thư thái như sống trong vòng tay mẹ - vĩ đại mà thân thuộc.

Chùa Một Cột uy nghiêm.
Cũng đến lúc chồn chân mỏi gối, kẻ lãng du quay lại khu phố cổ chật hẹp mà ấm cúng ăn một bát phở nóng đến đổ mồ hôi, rồi ngước mắt nhìn lên cái cửa ô cũ kỹ rêu phong. Hà Nội từng có đến 24 cửa ô, nay chìm khuất vào thời gian người ta chỉ còn hay nhắc đến mấy cái tên quen thuộc : ô Cầu Dền ở phía nam, ô Đống Mác gần đấy, ô Quan Chưởng phía đông, ô Yên Phụ phía bắc, ô Chợ Dừa phía tây nam, ô Cầu Giấy phía tây... Cửa ô là nỗi ngậm ngùi chia biệt. Ông Tú, ông Cử tay nải gió đưa qua cửa ô vào kinh thi hội. Cửa ô từng đón đoàn quân chiến thắng, mũ nan dép lốp, tưng bừng nhịp gió đỏ cờ về giải phóng Thủ đô... Ô Đồng Lầm có vải nâu mỏng tang cho tà áo dài phụ nữ tung bay, ô Yên Hòa là cửa mở cho suối hoa đào tràn ngập thị thành.

Hoa sưa trắng tinh khôi...
Hằng ngày, những suối rau xanh non lộc, tươi mát ngon lành, những thúng gạo trắng như bông, con gà chân vàng, cùng hoa tươi và muôn ngàn sản vật hào phóng tràn qua cửa ô vào thành phố... Tất cả điều đó làm nên một Hà Nội hào hoa văn vật ngàn năm, để cho kẻ tha hương dẫu rời xa Hà Nội nhưng tâm hồn luôn ở lại.
Ta còn em mùi hoa sữa
Con đường vắng rì rào cơn mưa nhỏ
Ai đó chờ ai tóc xõa vai mềm
Ta còn em cây bàng mồ côi mùa đông
Ta còn em nóc phố mồ côi mùa đông
Mảnh trăng mồ côi mùa đông
Mùa đông năm ấy
Tiếng dương cầm trong căn nhà đổ
Tan lễ chiều sao còn vọng tiếng chuông ngân
Ta còn em một màu xanh thời gian
Một chiều phai tóc em bay
Chợt nhòa, chợt hiện
Người nghệ sĩ lang thang hoài trên phố
Bỗng thấy mình chẳng nhớ nổi một con đường
Ta còn em hàng phố cũ rêu phong
Và từng mái ngói xô nghiêng
Nao nao kỷ niệm
Chiều Hồ Tây lao xao hoài con sóng
Chợt hoàng hôn về tự bao giờ
Hà Nội nét xưa còn đó
Hồ Tây trong ánh hoàng hôn lộng lẫy...
Nằm ở trung tâm châu thổ sông Hồng với vị trí địa lý thuận lợi, người dân thông minh thanh lịch, Thăng Long - Hà Nội, trải qua ba triều đại: Lý, Trần, Lê với hơn 800 năm trị vì, mà di tích Hoàng Thành vừa được khai quật là một bằng chứng. Những kiến trúc phương Đông của quá khứ hòa trộn với những kiến trúc phương Tây của hiện tại, những đền chùa cổ kính, những tòa biệt thự, những công trình văn hóa lớn với lối kiến trúc Pháp và rất nhiều công trình nguy nga mới mọc lên tạo cho Hà Nội nét độc đáo của một đô thị vừa cổ kính vừa hiện đại.
Nhà thờ lớn Hà Nội mang kiến trúc Pháp...
Hà Nội còn quyến rũ bởi thiên nhiên tươi đẹp với những hàng cây rợp bóng và hồ nước lung linh. Mỗi mùa đều có dáng vẻ riêng. Mùa xuân hoa sữa nở trắng dốc Ngọc Hà. Hè về, hoa sấu ngọt hương, đường Lý Thường Kiệt chói lòa màu phượng đỏ. Thu sang, hàng xà cừ lão đại trên đường Hoàng Diệu thả ngàn lá dát vàng không gian. Mùa đông, những phố cổ trở nên gợi cảm bởi thân bàng trụi lá...
Thu Hà Nội...
Ta có thể vui vì Hà Nội đã có những ngôi nhà cao tầng sáng choang cửa kính, nhưng dường như ta cảm thấy vui hơn khi đi một vòng Hồ Gươm để ngắm những cây hoa gạo đỏ, cây lộc vừng chín gốc soi bóng mặt hồ, cây liễu thướt tha buông rèm mượt như tóc người con gái Hà Nội. Cầu Thê Húc như chiếc lược đỏ đưa du khách vào đền Ngọc Sơn trên Hồ Hoàn Kiếm. Những khu phố cổ dù đã bao dầu dãi thời gian nhưng ở đó ta có thể bắt gặp điều gì đó vừa quen vừa lạ nơi những căn nhà được xây dựng cách đây hàng thế kỷ. Dẫu đã nhiều thay đổi nhưng những ký ức xưa, câu chuyện xưa vẫn thoảng như đâu đó trên những mái ngói rêu phong.
Khác với những ngôi nhà thường thấy trong các làng mạc cổ xưa của vùng đồng bằng Bắc Bộ, nhà ở đô thị cổ Hà Nội được hình thành từ những sáng tạo kiến trúc của những người thợ trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Hà Nội - kẻ chợ, vốn dĩ sống cụm thành từng phường hội, kinh doanh chuyên biệt một mặt hàng nào đó, tạo nên các phố có ngành nghề kinh doanh thuộc nền kinh tế thương nghiệp nhỏ riêng biệt, tồn tại bên cạnh khu thành cổ. Chính điều này đã tạo nên một Hà Nội với những phố nghề nổi tiếng: Hàng Bạc, phố Lò Rèn, phố Thuốc Bắc... Chẳng khó khăn gì để gặp những nghệ nhân với đôi bàn tay khéo léo, tài hoa đã làm nên những kiệt tác say đắm lòng người: đúc đồng, chế tác đồ vàng, bạc, sơn mài, gốm sứ, dệt may, tơ lụa, đồ gỗ, mây tre... Ở đất này có nghề gì mà không có những đôi bàn tay tài hoa nghệ sĩ. Chỉ mười phút xe hơi, ta sẽ đặt chân vào làng nghề Kiêu Kỵ với bạc quỳ, vàng quỳ... Sẽ bất ngờ khi lạc vào thế giới của gốm sứ Bát Tràng, ngắm dòng sông trên bến dưới thuyền dập dìu những ghe hàng đầy ắp...
Chiều trên sông Hồng...
Nằm ở phía nam của khu hoàng thành xưa, bao quanh bởi những bức tường cổ kính, Văn Miếu, trung tâm Nho giáo và Nho học, nơi đào tạo nhân tài bậc nhất xưa kia đã tồn tại và hiện diện ít nhất 930 năm, hằng ngày tấp nập du khách đến chiêm ngưỡng trường đại học đầu tiên của Việt Nam.
Quốc Tử Giám, trường Đại Học đầu tiên của Việt Nam
Hãy đến với chùa Một Cột bắt nguồn từ giấc mơ lành thấy Phật Quan Âm dắt tay lên tòa sen của vua Lý Thái Tông (1028-1084) hay một phần của Hoàng Thành hoa lệ trải suốt các triều đại Lý - Trần - Lê. Hoặc đơn giản hơn nhẹ bước trên cây cầu Long Biên trăm tuổi nối nhịp sống đôi bờ. Đến và đi, để mà cảm nhận, để thấy lòng mình trầm lại, thư thái như sống trong vòng tay mẹ - vĩ đại mà thân thuộc.
Chùa Một Cột uy nghiêm.
Cũng đến lúc chồn chân mỏi gối, kẻ lãng du quay lại khu phố cổ chật hẹp mà ấm cúng ăn một bát phở nóng đến đổ mồ hôi, rồi ngước mắt nhìn lên cái cửa ô cũ kỹ rêu phong. Hà Nội từng có đến 24 cửa ô, nay chìm khuất vào thời gian người ta chỉ còn hay nhắc đến mấy cái tên quen thuộc : ô Cầu Dền ở phía nam, ô Đống Mác gần đấy, ô Quan Chưởng phía đông, ô Yên Phụ phía bắc, ô Chợ Dừa phía tây nam, ô Cầu Giấy phía tây... Cửa ô là nỗi ngậm ngùi chia biệt. Ông Tú, ông Cử tay nải gió đưa qua cửa ô vào kinh thi hội. Cửa ô từng đón đoàn quân chiến thắng, mũ nan dép lốp, tưng bừng nhịp gió đỏ cờ về giải phóng Thủ đô... Ô Đồng Lầm có vải nâu mỏng tang cho tà áo dài phụ nữ tung bay, ô Yên Hòa là cửa mở cho suối hoa đào tràn ngập thị thành.
Hoa sưa trắng tinh khôi...
Hằng ngày, những suối rau xanh non lộc, tươi mát ngon lành, những thúng gạo trắng như bông, con gà chân vàng, cùng hoa tươi và muôn ngàn sản vật hào phóng tràn qua cửa ô vào thành phố... Tất cả điều đó làm nên một Hà Nội hào hoa văn vật ngàn năm, để cho kẻ tha hương dẫu rời xa Hà Nội nhưng tâm hồn luôn ở lại.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)